NHẬN XÉT:
Đây là cách không hay, mặc dù chỉ có 4 sao lại không có CỰ
MÔN, cuộc sống cứ ngỡ êm đềm nhưng bố cục lại không hoàn chỉnh. Lương thực
(Lương) ở trong nhưng ruộng vườn (Đồng) lại của thiên hạ. Nhà cửa tuy rằng
THIÊN LƯƠNG may mắn, bóng mát chứ chưa có nền móng THIÊN CƠ. Chứ đừng đòi hỏi
cao sang cổng ngỏ. Ta chỉ là kẻ gặp may, còn người bên ngoài là kẻ có phúc. Cứ
y như một người đi đường đói bụng, cần ăn bỗng nhiên thấy một quán ăn. Thế là
cho rằng mình gặp may. Thật ra chủ quán mới là kẻ may mắn. Cũng như một người
đi tìm việc kiếm được việc làm cho rằng mình gặp may. Chắc gì, kẻ may mắn hơn
lại là ông chủ. Nếu không có những lao công làm công việc nặng nhọc trên chiếc
tàu, liệu ông chủ tàu, ông thuyền trưởng có đi biển được không? Ta cho là may
còn họ là phúc.
Nói cái hay dở của THIÊN LƯƠNG cư Ti Hợi là thế. Nó không
hoàn chỉnh. Các chữ “Số Phận Định Đoạt” nằm trong tay người khác. So với THIÊN
ĐỒNG cư Tị Hợi còn nắm trong tay chữ số. Còn THIÊN LƯƠNG thì không. Nhưng THIÊN
LƯƠNG vẫn là ngôi sao Tài năng (4 sao có tài là VŨ THAM CƠ LƯƠNG). THIÊN LƯƠNG
cư Tị Hợi, bên trong còn có bộ Dương Lương vì thế nam hay nữ vẫn hy vọng có
những tháng ngày may mắn, bộ ĐỒNG LƯƠNG vẫn tìm thấy hạnh phúc nếu biết phối
hợp với THIÊN ĐỒNG ở ngoài, còn có các cách ĐỒNG ÂM chỉ sợ e bị phá cách
không thành.
LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU:
NHẤT TRÍ, CÙNG CHUNG MỘT TIẾNG NÓI, ĐỒNG THUẬN:
Tại đây thiên về sự nhất trí giữa bên trong và bên ngoài, dễ
tìm thấy đồng minh từ phía bên ngoài đến, đồng minh một cách âm thầm hoặc công
khai, hoặc cả 2. Ví du: Dễ hiểu là với A, B và C đến từ bên ngoài, phía A là
đồng minh công khai. B nửa công khai nửa bí mật, với C là đồng minh bí mật.
Đồng minh đó, có khi chỉ là bạn bè đến từ phía bên ngoài, với người nầy mình
tiếp xúc như vậy để cha mẹ không phản đối, với người kia tiếp xúc bí mật sợ cha
mẹ không hài lòng... Nói chung dễ kiếm bạn bè.
DÀY và MỎNG. NÔNG và SÂU:
THIÊN LƯƠNG chủ nông cạn, nông nổi, nông nỗi... THIÊN ĐỒNG
chủ thâm sâu, thầm kín... Trong nông ngoài sâu. Đàn ông hay đàn bà nông nổi? Ai
cũng có thể là nông nổi nếu có THIÊN LƯƠNG đơn thủ. Nhất là trong trường hợp
này. Vì bên trong ta nông nổi khó đối phó với bên ngoài thâm sâu, thầm kín. Đây
là cái thế bất lợi cho người có THIÊN LƯƠNG Tị Hợi không thể lường trước những
toan tính thâm sâu bên ngoài, nhất là THIÊN LƯƠNG lại có tính từ tâm khó đối
phó với CỰ MÔN chứ chưa nói đến KHÔNG KIẾP.
Dày là phúc, mỏng là lương. Nếu đi với KHÔNG KIẾP ta gọi là
phúc bạc phận mỏng. Mỏng là suy nghĩ nông cạn, tình cảm nông cạn, với chổ thân
tình cần thâm sâu, với chổ quen biết cần nông cạn. Hai yếu tố dày mỏng cần nằm
một phía mới hay. Vì không phải ai ta cũng sâu dày hay chỉ qua loa được, tùy
người tùy hoàn cảnh. Đây là nơi phối hợp 2 yếu tố. Dày và mỏng. Nông cạn và
thâm sâu. Cùng một lúc có đủ 2 yếu tố rất đáng quí, tức là phân biệt ta thâm
sâu với ai và ai là người ta nông cạn. Ta không thể thâm sâu với người xấu,
người xa lạ…
“Đàn ông nông nổi giếng khơi. Đàn bà sâu sắc như cơi
đựng trầu”
Bên trong phơi bày, bên ngoài phúc đáp.
THIÊN LƯƠNG chủ phơi bày tâm sự. THIÊN ĐỒNG chủ phúc đáp. Từ
đó dễ tìm được tiếng nói chung (Đồng Âm). Nếu THIÊN LƯƠNG không phơi bày tất
THIÊN ĐỒNG không thể phúc đáp. Như vậy có lợi cho sự bày tỏ, dễ tìm được tiếng
nói cảm thông.
PHÚC ẤM, ÂM PHÚC:
Phúc ấm, âm phúc là gì?. Là những may mắn do dòng họ, mồ mả,
tổ tiên đem lại người ta thường nói hưởng âm phúc (tức Đồng Âm) của ông bà.
“ẤM PHÚC tại Mệnh, Thân bất phạ tai ương”. Tức không sợ tai
ương vì có sự cứu giúp gặp may mắn mà không cần cầu cạnh ai. Ngoài ra còn dễ
thụ hưởng di sản, tài sản, địa vị, tước hiệu của cha ông để lại, tuy rằng cách
Âm Phúc của THIÊN LƯƠNG Tị Hợi không lớn nhưng có còn hơn không. Vi vậy được ví
như bóng mát cuộc đời. Kị gặp phá cách là họa phúc vô lường hoặc trong phúc có
họa, trong họa có phúc.
Âm Phúc là cách an tĩnh hưởng phúc không bon chen, cầu
cạnh, không xông pha nơi chốn chính trường, chiến trường cái may mắn tự nhiên
mà tới. Nếu không bị phá cách, được cát tinh, hỉ tinh đây là cách ‘Thần may mắn
đang mĩm cười với bạn’.
ÂM THẦM HƯỞNG PHÚC. HẠNH THÔNG:
Tốt là âm thầm, an vui hưởng phúc. Gọi là an tĩnh hưởng phúc.
Nếu bị phá cách thì lại là tai họa ẩn tàng. Hoặc đương đầu với bao áp bức. Nếu
bộ sao nầy tốt không bị phá cách tức là hưởng. Ngược lại không được hưởng đồng
thời còn phải có những lo toan về mồ mả tổ tiên. Xấu là không yên thân, muốn
lặng mà gió không ngừng, trong lòng như có những điều không nói được. Cách này
không ồn ào như các cách có CỰ MÔN hội họp.
Muốn đánh giá tốt xấu xem phần cần gặp và kị gặp.
NGƯỜI ĐÀN ÔNG MAY MẮN. ĐỨA BÉ CÓ TÀI, ĐỨA BÉ MAY MẮN:
Người đàn ông may mắn. Trong đám dự thi toàn nam giới tất có
người đàn ông may mắn nhất. Những người còn lại có phần kém may mắn, nhưng còn
may mắn hơn là những người không được hay bị trừ bỏ trước cuộc thi. Bộ
ĐỒNG LƯƠNG chủ đứa bé có tài. Đây là bộ sao chủ thông minh lại thêm có tài. Hay
nhất gặp thêm HỈ THẦN chủ thần đồng.
THÁNG NGÀY MAY MẮN:
Ví du: ‘Hôm nay là ngày may mắn của tôi’. Có những người có
tháng ngày may mắn. Đó là ngẫu nhiên trúng thưởng, ngày thi đấu xuất sắc, ngày
thắng trận trong dịp may... và thường kết luận là hôm nay thật là may mắn. Nhưng
nếu bị phá cách tất phải nói là ngày không gặp may, thậm chí xấu quá ,ngày may
mắn trở thành ngày xui xẻo. Vì thế cần gặp KHÔI VIỆT chủ phát sinh hoặc Hỉ Hồng
Đào để vui mừng. Tuy nhiên có rất nhiều người không có ngày may mắn lớn như
thế. Đối với họ ‘một ngày như mọi ngày’.
THIÊN LƯƠNG Tị Hợi và câu phú:
“LƯƠNG, ĐỒNG Tị Hợi. Nam đa lãng đãng, nữ đa dâm”
“LƯƠNG, NGUYỆT Tỵ Hợi. Nam đa lãng đãng nữ đa dâm”
“Kể chi những cách hư hèn. NGUYỆT Thìn, LƯƠNG Tỵ, Hợi viên đó
mà”
Trên là những câu phú có những nhận xét nông cạn, nông nổi y
như sao THIÊN LƯƠNG vậy. Thật ra nếu LƯƠNG đi với MÃ thì có thể, cũng dừng lại
chỉ có thể thôi. Vì còn KHÔI VIỆT, PHƯỢNG CÁC, KHOA cứu giải. Vì cách Lương Mã
lương thực và xe cộ mát trời đi chơi, kiếm chỗ ăn uống cuộc sống rất nhàn du.
Vì thế còn có câu phú “MỆNH ngộ MÃ LƯƠNG túng du vô yếm” (ăn chơi không chán).
Giải thích đến đây chắc bạn cũng hài lòng. Nhưng đi sâu vào còn điểm thú vị
nữa, là khi hình thành cách Mã Lương, là vô tình cũng hình thành cách Sát Phá
Tham Đào tại hạn. Thế là có thêm một hạn vui chơi đập phá, trai gái chiếm đoạt,
ồn ào đấu đá. Vì thế có cách Lương Mã tại MỆNH là mất hay rồi.
SO SÁNH LƯƠNG tại Ti và tại Hợi.
Lương tại Tị và tại Hợi có vẻ như là giống nhau, bộ NHẬT
NGUYỆT đều đắc địa tại Sửu Mùi trên nguyên tắc là giống nhau hoàn toàn. Nhưng
đi vào thật tế ta tấy Lương tại Tị bị phê phán nhiều hơn là Lương tại Hợi. Ví
dụ: “ LƯƠNG tại Tị tất tật du. DIÊU tại Hợi vi minh mẫn” hoặc là “ THIÊN LƯƠNG
Hao Sát Tị cung đao nghiệp hình thương”. Vậy thì Lương Hao Sát tại Hợi không bị
có đao nghiệp hình thương không? Nếu không giải thích điều này chắc các bạn
không bao giờ tìm ra lý do vì sao tại Tị lại tồi tệ đến thế. Có đến 2 lý do.
Một là tại Tị Lương luôn luôn tam hợp hay đồng cung với PHÁ
TOÁI. Chính ngôi sao này gây nên điều phiền toái. Ở Hợi sao này cao nhất là
xung thôi.
Hai là khi Lương tại Tị tất tại cung Tử Tức có cách THAM LANG
ở Dần, tức có lúc hạn hành ta đi qua đấy. Mà THAM LANG tại Dần là một cách
không hay, so với tại Thân. Người ta phê phán cách THAM LANG tại Dần nhiều hơn
là tại Thân, ngay tai nạn chó cắn cũng sẩy ra với cách LANG HỔ tại Dần chứ tại
Thân thì lại không. Vì THAM LANG tại Dần có Địa Võng nói vu vào làm người ta
thêm ghét. Vì thế THIÊN LƯƠNG tại Hợi hay hơn Lương tại Tị.
THIÊN LƯƠNG cư Tỵ cần gặp và kị gặp.
* Vị trí này có thể gặp cách “Hiệp KHÔNG hiệp KIẾP chủ bần
tiện”.
CẦN GẶP:
BỆNH PHÙ: Hợp cách. Lợi cho
nghề thuốc.
PHỤC BINH TƯỚNG QUÂN:
Hợp cách, Phục thiện gặp may, phát phúc, phát từ tâm. THIÊN LƯƠNG là ngôi sao u
uẩn luôn luôn có nổi niềm kín đáo, ưa phơi bày
KHÔI VIỆT: Cụ
túc uy nghi, có tính mô phạm đạo đức, chấn chỉnh cái tính ham ăn, ham chơi của
THIÊN LƯƠNG. Còn hợp cách do phát phúc (Đồng Việt) phát may (LƯƠNG VIỆT)
KHÔI VIỆT HỒNG THANH
hoăc KHÔI VIỆT CÁI THANH. Nam cận cửu trùng nữ tác cung phi.
THANH LONG:
Hợp cách, tức là nói THANH LONG tọa thủ tại bản cung. Chủ lương tâm trong sáng.
Trong này tất có bộ Đồng Binh (việc phúc). Còn chủ sự nhất trí, còn hợp với
THÁI ÂM thành bộ Âm Thanh cách rất dễ nỏi tiếng.
THÁI TUẾ: Hợp cách. Đi với sao
này lợi cho bày tỏ, phơi bày tâm sự. Vì Lương thích phơi bày tâm sự để
tìm cảm thông (THIÊN ĐỒNG) từ phía bên ngoài. Đồng thời vị trí này thường đủ bộ
Tứ Linh, Nếu THÁI TUẾ đồng cung tức là TUẾ PHƯỢNG. Có THÁI TUẾ hưởng cách Tam
Thái giữ nhưng nhiệm vụ quan trọng.
KÌNH PHƯỢNG:
Hưởng cách “Nhất thế uy danh”
LỘC TỒN: Hợp cách. Lương thực
và cái kho dành dụm, của để dành.
XƯƠNG KHÚC: Có
thêm LỘC (LỘC TỒN hay HÓA LỘC) hội là hưởng cách Lô truyền đệ nhất danh. Nếu
không có Lộc vẫn là cách hay vì là bộ sao Văn hóa (tuy nhiên có dâm tính, cần
kiểm tra các sao DIÊU Y, ĐÀO nằm ở đâu).
Tam HÓA: Các bộ nhị Hóa hay
theo thứ tự KHOA LỘC, KHOA QUYỀN, QUYỀN LỘC. Nếu thấy HÓA LỘC tìm xem có LỘC
TỒN nhị hợp không nếu có là cách Minh Lộc Ám Lộc, nếu có LỘC TỒN là cách Song
Lộc. Nếu có KHOA tìm xem có LỘC TỒN nhị hợp không, nếu có là cách “Khoa Minh
Lộc Ám”.
DIÊU Y: tại Hợi vẫn là người
minh mẫn. Nhất là đi với nhóm Văn tinh (KHÔI VIỆT XƯƠNG KHÚC KHOA).
Song Hỉ: Là người may mắn hợp
cách với bộ Đồng Lương. Cá biệt hưởng cách Thần Đồng, Kỳ Đồng
ĐÀO HÔNG HỈ đi với nhóm sao này hợp cách. Vì ruộng đồng cần
thiết có hoa quả.
LINH KỴ (lịnh cấm, tinh kỳ...): Hợp cách vì những lịnh cấm hợp lý nhất trí (của bộ Đồng Âm)
ví dụ Cấm lửa (nơi dễ cháy nổ) đi với QUYỀN LỘC nhất là song Lộc, doanh thương
dễ thành công nhất trở thành tinh kỳ, thương hiệu, biểu tượng... như nhìn con
sò ta biết Esso, nhìn P ta biết Petro Limex, cái gì đo đỏ chắc Coca, xanh xanh
chắc Pepsi... ngày xưa người ta treo tinh kỳ trước cửa hàng (bây giờ người Hoa
vẫn còn dùng)
KHOA KỴ: Vẫn hay. Các sao
ĐỒNG LƯƠNG VŨ đi với bộ này rất hay. Thực tế là bộ sao khoa học kỹ thuật, những
cấm đoán trong khoa học. (Ví dụ tìm mọi cách tắt máy nhanh trong vi tính đều có
hại, các file đang mở dở dang, biết vất vào đâu bây giờ. bạn không tin mở
chương trình WMP nghe nhạc, bạn không nghe nửa, tắt đi vẫn còn nghe tiếng nhạc
văng vẳng vài giây, thật sự khi bạn tắt đi, nó không hiển thị cho bạn thấy
nhưng bên trong nó từ từ cất đồ nghề)
KỊ GẶP:
MÃ: Rất kỵ gặp sao nầy.
Nam khước tác phiêu bồng chi khách. Phiêu bạt phong trần. Nữ dâm. Còn bị phê
“túng du vô yếm” (ăn chơi không chán), “ vi nhân phiêu đãng vô nghi” (du lịch
bụi, Tây ba lô, Việt ba láp). Vì chỉ biết ăn chơi, đi lại, xe cộ chạy rông. Kể
cả trường hợp MÃ xung.
BẠCH HỔ: đồng cung tức từ
cung Thiên Di có cách té ngã từ cao CƠ LƯƠNG TANG ĐIẾU. Hạn ngộ dễ sinh tai
họa.
HOẢ LINH tối kị. Vì THIÊN
LƯƠNG chủ đòn nóc có lửa vì thế kỵ lửa, trừ trường hợp Hỏa đắc địa có thể ứng
với thức ăn nóng sốt, hợp với những người làm những hành nghề có cái lò (lò
bún, lò mì...lò nung từ xa ta nhìn thấy khói bốc trên mái nhà). Đi với LINH chủ
thức ăn nguội, lạnh nói lên nổi vất vả kể cả ăn uống, ngoài nhà còn ám chỉ ngôi
nhà lạnh lẽo (chứng tỏ thiếu tiện nghi) về mặt tai nạn, Linh chủ rơi rớt rụng
từ trên nóc nhà xuống... vì thế rất kỵ TANG MÃ. Có câu:
“KHOA QUYỀN LỘC MÃ tu phòng KHÔNG KIẾP ám xung
CƠ NGUYỆT ĐỒ̀NG LƯƠNG tối kị HOẢ LINH xâm phá”
Cách Đồng Lương đi với Linh Hỏa bất lợi cho nhà nông vì cảnh
đồng khô cỏ cháy.
Nếu có HỎA LINH cần đi với KHOA, có HỎA LINH kỵ KHÔI VIỆT.
Nếu có cả KHÔI HỎA KHOA tính phức tạp nhưng khả năng xấu của cách KHÔI HỎA vẫn
dễ gặp.
KIẾP KHÔNG: Kẻ
dưới lộng quyền. Kẻ dưới là kẻ dưới tay trong nhà là vợ con, các em, tôi tớ.
Ngoài xã hội là thuộc cấp, bạn bè. Do THIÊN ĐỒNG lấy nhân hậu đãi người, THIÊN
LƯƠNG lấy nhân ái trao đời, nói chung là kẻ hiền gặp côn đồ KHÔNG KIẾP ăn hiếp.
Vì thế gặp KHÔNG KIẾP gặp Sát Phá sinh chuyện ăn thua.
Đi với KHÔNG KIẾP là vô phúc bất hạnh, không may dễ cùng
chung tai họa.
Giáp KHÔNG KIẾP:
Khả năng có thể bị cách này, đây là cách bạn chưa quen TỬ VI khó phát hiện. Xấu
nhất là bản cung lại có thêm KỴ.
HAO KIẾP SÁT:
Đao nghiệp hình thương, tối kỵ tại cung Tị vì có thêm PHÁ TOÁI. Nhưng tại Hợi
thì không.
KÌNH ĐÀ: Nhân ly tài tán. Chủ
khó khăn vì lương thực, lương tiền vì thế nào cũng có HAO hội họp.
KỴ: Các trường hợp có KỴ
đi với Kình Đà, KHÔNG KIẾP HÌNH là xấu. Cần có KHOA tinh, hay bộ LONG KỴ HÀ hóa
giải để có nới đắc dụng. Dễ hình thành các bộ nhị ám, tam ám. Đi với cát tinh
là Kỳ tài, Kỳ đồng vì Lương Đồng là cậu bé tài năng.
KỴ LỘC TỒN đồng cung: là
cách KÌNH ĐÀ hiệp KỴ. KỴ đóng ngay bản cung sẽ hiệp với Kình Đà bên ngoài, Kình
Đà không còn là phên dậu, phòng ngừa cho LỘC TỒN nữa mà quay ra uy hiếp.
THIÊN HÌNH: Dễ
bị bạc đãi.
Thiết nghĩ những điều viết trên đây giúp các bạn dư sức để tự
mình luận giải đánh giá lá số của bản thân.
TUẦN TRIỆT: Đi
với THIÊN LƯƠNG có thể ví vô hại, tuy nhiên có TRIỆT đồng cung dễ bị trừ lương,
thiệt thòi về mặt lương thực, lương tiền bù lại cái tâm tốt lộ ra. đi với Tuần
hưởng cách Trung lương trọn vẹn thủy chung, tối kỵ gặp thêm KHÔNG KIẾP.
Hai cái này cùng hợp lại, gặp lúc suy nghĩ quá nhiều, nóng giận quá độ sẽ có thể nảy sinh tình trạng đờm suyễn dồn lên gây tắc thở đồng thời thiếu máu não gây xây sẩm mặt mũi hoặc tràn dịch màng não gây đột quị. Cấp cứu kịp thời, nhẹ thì có thể bán thân bất toại. Không cấp cứu kịp thời, nặng là đi tong.
Cháu cảm ơn Bác và kính chúc Bác sức khỏe!
Galileo năm xưa cũng vậy, sách bảo quả đất vuông mà sau bao nhiêu nghiên cứu một cách khoa học, ông thấy nó tròn quay!! Thế mà người ta vẫn bắt bớ Galileo "KHÔÔÔNG, quả đất phải vuông kìa, kinh thánh bảo thế thì phải nghe theo". Bác ơi, Bác theo một con đường mới thì ắt hẳn ngoài kia một đống người bắt Bác phải công nhận là "quả đất vuông" đấy!!
Cháu cũng có cùng câu trả lời với Khoan Hậu về câu hỏi Bác đặt ra, đó là Kiếp Sát. Sức cháu đoán đến đó là xong luôn. Bây giờ cháu đang ngẫm nghĩ vê Tử Vi ngộ L. Tuần, L. Triệt + Không (Tam Không) của cháu năm sau đây Chờ câu trả lời của những bạn khác vậy!
năng giới hạn người đọc: bạn bè, bạn thân,gia đình, tất cả,..Nhưng mà
blog đang bị lỗi. Giờ mà bác cài đặt thì không ai đọc được luôn.
Nghiên cứu hai lá số:
Lá số Bà Mậu Dần, cung Tật Ách có Kiếp Sát cố định ở cung tam hợp, năm Đinh Ngọ Lưu Kiếp Sát tại Hợi trùng với Kiếp Sát cố định, nên bị họa sát thân.
Lá số Ngài Viện trưởng Nguyễn Văn Bông, có Kiếp Sát cố định tại cung Tật Ách, năm Tân Hợi có Lưu Kiếp Sát xung Kiếp Sát cố định nên cũng bị họa sát thân.
Nhưng trong tai họa sát thân này có nhiều người bị họa lây, như vậy không lẽ lá số của họ cũng có Kiếp Sát tại cung Tật Ách. Thế thì phải có thêm yếu tố nào đó, và qua cả hai lá số đều có Thái Âm (âm mưu) nhị hợp với cung Tật Ách.Vậy ta có thể nói thêm, nếu có Thái Âm nhị hợp, hay xung chiếu với cung Tật Ách, thêm Lưu Kiếp Sát thì nguy cơ bị họa sát thân tương đối cao.
Lá số của Vua Quang Trung, cung Tật Ách không có Kiếp Sát cố định, năm Nhâm Tý (băng hà) cũng không có Lưu Kiếp Sát tại cung Tật Ách (phùng xung hay tam hợp). Như thế, Thái Âm tại cung Tật Ách của ngài là bị bệnh lâu ngày (âm thầm) không phát hiện, vì không thể gọi là âm mưu với chính bản thân mình.
Chắc cách luận của cháu "sai thì nhiều, đúng thì ít", vậy cứ coi như có đề tài cho Bác sửa chữa để mọi người hiểu biết thêm.
Kính