Truyện Tử Vi của Bửu Đình.
Hồi1 nhấn đây
Hồi thứ 15.
Cờ bay phất phới.
Hồi1 nhấn đây
Hồi thứ 15.
Cờ bay phất phới.
Nói về bọn Sơn Đường. Khi quân triều đình chiếm vùng Hoang Đường với quân số lên đến một doanh khiến Phá Vương hiểu rõ, kế tiếp là Sơn Đường. Một mặt y ra lịnh kêu gọi bọn đi “làm ăn xa” trở về. Bắt cóc thêm 2 lang y chữa nội ngoại thương ở huyện Hồng Loan. Thu nhận những tay anh chị, trốn tránh pháp luật bổ sung thêm vào quân số, từ vùng Hoang Đường đến. Mặc dù có một số lâu la của y tìm cách đào ngũ nhưng quân số của y lại tăng lên đến 150 quân. Sát vương tuy đang bị thương nhưng vẫn đưa ra những nhận xét rất chính xác. Cần tạo thêm nhiều cung thủ và làm thêm cung tên. Phòng thủ chính ở vùng sườn đồi núi đá vôi. Lấy núi Sọ Người là mục tiêu phòng thủ chính. Tạo một tuyên chốt phòng thủ từ núi Lớn đến núi Răng Cọp. Chuyển 2 cây nỏ được chúng phong là Nỏ Thần về phía đồi núi (còn gọi là ná, như cây cung nhưng có thanh gỗ ở giữa để gắn tên, bắn bằng lẫy cò, có thể bắn được 2 mũi tên cùng lúc. Khi lên dây, một chân đạp cánh cung, hai tay lên dây gài vào chỗ lẫy cò, sát thương trên trăm trượng. Đây là cây ná bắn voi của người dân tộc vùng Sơn Đường). Chúng tin là quân triều đình đi theo lối ấy, qua sạn đạo là việc không thể, khi cần chúng cắt dây các cầu treo thế là xong. Vì thế chúng chẳng cần phá hủy các công trình đó, mục đích là chúng dụ quân triều vào để bắn tỉa. Quả nhiên chúng lý luận rất là đúng. Đi qua sạn đạo tuy khó khăn nhưng chỉ nửa canh giờ mà thôi là vào tới động Sơn Đường dưới núi Sọ Người. Nhưng đi đường vòng ư, mất cả ngày nếu chưa biết lối đi. Lại đi dưới những ngọn núi răng cọp, dưới chân là đá tai mèo, gai góc cỏ dại, phơi mình ra để bọn chúng bắn. Với lợi thế lại thêm bị dồn vào thế liều mạng chúng không hề nao núng. Sơn Đường như ngày hội, cả trăm cây cung được làm ra, hằng vạn mũi tên bằng tre làm vội, hằng trăm trượng dây được tết lại để chuyển lương thực, cung tên lên các hang hốc trên các sườn đá vôi. Và vui như tết là tập bắn. Tham vương thì lo việc đốc thúc việc làm cung tên, Sát vương thì lo huấn luyện, Phá Vương luôn luôn động viên. Một lá đại kỳ đầu lâu xương chéo được đăt trên núi Đầu Lâu, làm hiệu lịnh bay phất phới rất khí thế. Đâu đâu cũng rộn ràng, người nào cũng tay đao, vai cung. Bọn Sát Phá Tham, Cự Đồng Binh tạo kiếp nạn sẵn sàng chống linh (Kình Linh) của triều đình. Chỉ nghe bọn chúng lập đi, lập lại những từ nghèo nàn hầu như giống nhau là do thám, bắn, giết, chém, phục, chiếm, đoạt....
Trong lúc ấy bọn Sát Phá Tham... vì lý tưởng triều đình thì sao? Cũng vẫn dùng các từ ấy.nhưng đó là trách nhiệm gánh trên vai của họ. Và khi bước vào cuộc chiến, từ được 2 bên dùng nhiều nhất là “sống hay là chết” (Tử hay là vi). Tại đây là môi trường của cái chết, cái bị thương là rất dễ, chỉ cần xâu xấu thôi là chết. Hằng trăm con người luôn luôn đang rình rập nhau, đem mọi thủ đoạn, âm mưu đến cả sự thông minh để mưu hại lẫn nhau. Con số mà người ta cần biết là con số thương vong, số tấc đất lấn tới... chứ không phải số tiền. Và từ “may mắn” cũng được thầm thì nói. Như, may mà hôm nay cơ, đội ta ở tuyến sau làm trừ bị, may mà gặp quan chỉ huy không có số nướng quân, sat quân, may mà bị thương không chết, may phước chưa bị thương nhẹ.
Lãnh binh Liêm Tham là một người có nét đặc thù. Y thích chiến tranh, y muốn có chiến tranh, y thích hợp trong thời kỳ tao loạn. Y muốn có giặc để y trổ tài. Loạn thế tạo anh hùng, cho nên y bỏ ngỏ vùng Hoang Đường sinh loạn, để y đánh dẹp trở thành con người nổi bật. Bọn Sơn Đường càng mạnh bao nhiêu chiến thắng của y càng vang dội. bấy nhiêu. Phải có nhiều kẻ thua, chiến thắng của y mới giá trị. Khi quan triều kéo đến vùng Hoang Đường, để chuẩn bị đánh vùng Sơn Đường y cảm thấy bị đánh mất một cơ hội. Bất ngờ vui mừng cho y, khi quan Thượng thư bộ Binh yêu cầu y động binh trước ngày 20.
Y tập trung 3 cơ, mỗi cơ có 10 đội, mỗi đội có 50 quân. Vị chi 1500 quân, trong đó có 300 cung thủ, 65 ngọn cờ. Mang theo 4 ngày lương khô, có nghĩa muộn nhất là chỉ nội trong 4 ngày là hát khúc hoan ca mừng chiến thắng trở về.
Gióng trống mở cờ, tinh kỳ phất phới (Linh Kỵ Quyền). Ngày 19 y đã tập trung dựng doanh trại tại ngã ba Sơn Đường. Lại có một vệ của doanh Trung Quân do Liêm Binh chỉ huy, từ vùng Hoang Đường đến trợ chiến và giám sát trận đánh. Khí thế quân triều hừng hực, bọn quản cơ, suất đội rất oai dũng đi kiểm tra từng mũi tên, lá chắn (khiên bằng mây), ngọn giáo, lưỡi gươm trước khi bước vào trận đánh ngày mai.
Tất cả mọi hoạt động của quân triều không qua mắt bọn Sơn Đường.
Ngày 20 tết năm ấy. Quan Lãnh Binh Liêm Tham đem 1500 quân tấn công vào vùng Sơn Đường, bị chận lại ở sạn đạo. Những tốn thất liên tiếp trong 2 ngày đầu khiến nhà vua lo lắng. Ngày thứ hai y mở thêm mũi thứ hai đánh lên đồi đi qua những vùng đồi núi hình răng cọp, dưới chân là đá tai mèo nhọn hoắt. Cả 2 ngã đường đều bị cung thủ của bọn Sơn Đường chận đánh, với lợi thế từ các núi đá vôi ở trên cao bắn xuống. Mặc dù các tin báo về triều đình đã giảm con số thiệt hại xuống một nửa, chỉ có 30 thương vong khiến nhà vua ưu sầu ra mặt.
Ngày 23 ông Táo về trời. Hung tin bay về triều đình, quan lãnh binh Liêm Tham do đốc chiến bị trúng nỏ lớn vào cổ tử thương, khiến cả triều đình bàng hoàng. Kết quả 4 ngày tử chiến, thương vong lên đến 120 người. Quan Phó lãnh binh bọn Cơ binh đã hết lương thực xin rút lui, nhưng lịnh triều đình yêu cầu bàn giao lại cho doanh Trung quân của triều đình, ngay ngày hôm đó phải có mặt ở trận địa.
Bọn lính làm nhiệm vụ đưa tin hỏa tốc lưu tinh bay vèo vèo trên đường xứ Ngọ, Tỵ, Thìn suốt ngày đêm không nghỉ.
Một hình ảnh do một họa sỹ vẽ vùng đất Sơn Đường được gởi nhanh về triều đình. Để minh chứng cho nỗi khó khăn của các chiến sỹ ngoài mặt trận.
Khi quan Thượng thư Đô thống trình những hình ảnh vùng Sơn Đường lên. Nhà vua không hết lời than thở. Suốt 35 năm làm vua đất nước thái bình, đây là lần đầu tiên có một trận đánh lớn, kết quả lại quá thê thảm.
Cùng lúc quan khâm sai Thiên Phủ đang nắm quyền Tổng đốc đưa ngay quan khâm sai Thiên Tướng nắm quyền Lãnh binh bọn Cơ binh xứ Thìn. Và việc đầu tiên là Lãnh binh Thiên Tướng lịnh cho bọn Cơ binh đóng dọc vùng đồi núi đến chùa Hồng Linh tự để đón lõng bọn Sơn Đường bỏ trốn, yểm trợ cho quân triều tấn công. Đồng thời mở ngay cuộc điều tra về tư dinh của quan lãnh binh Liêm Tham. Không khó khăn gì đã phát hiện một căn phòng bí mật giam giữ nàng Thái Âm Kiếp.
Qua câu chuyện của Thái Âm Kiếp, được biết rõ ràng về cái chết của viên khâm sai 20 như sau: Khi Lãnh binh Liêm Tham tiếp quan khâm sai tại tư dinh, qua ngôn ngữ nàng Thái Âm Kiếp phán đoán người được quan Liêm Tham tiếp ắt là chức vụ rất lớn. Nàng ta la để cầu cứu. Việc bại lộ quan Liêm Tham ra tay hạ độc thủ và chôn xác Khâm sai 20 tại bên trong tư dinh của y. Còn nàng Thái Âm Kiếp từ đó bị giam xuống hầm bí mật.
Tin tức lại bay về. Buổi họp khẩn tại Cơ mật viện gồm có nhà vua, quan Tể tướng, quan Thượng thư bộ Binh, Bộ Hình và có cả quan Ngự sử. Lần đầu tiên quan Tể tướng được sự ủng hộ quan Thượng thư bộ Hình phản đối nhà vua về việc ngài định đoạt công (Vũ Khúc) và tội (Sát Phá) của quan Liêm Tham là không công bằng. Nhà vua bỏ qua mọi tội lỗi của quan Liêm Tham, vẫn cho làm lễ tang theo phong cách Lãnh binh. Ý kiến của nhà vua được sự đồng tình quan Thượng thư bộ Binh và viên cận thần cả 2 đều cho rằng, đã chết rồi thì thôi, phanh phui việc đó chỉ làm xấu mặt bọn quan lại triều đình nhất là phía bộ Binh, y đã bỏ mình vì nước, không truy thăng, tặng thưởng lên Chưởng vệ là đủ rồi. Việc bồi thường thiệt hại cho nàng Thái Âm, nhà vua bảo: “Cái đó để trẫm lo, không để thiệt cho nàng ấy”, vụ Khâm sai 20 được xếp vào tai nạn trong công vụ, khỏi phải báo tư thù. Thế là nhà vua xuất tiền túi ra khai thông bế tắt, 2 vị đại quan hết tranh luận. Nàng Thái Âm Kiếp được bí mật đoàn tụ với chồng là chàng Thiên Lương phục vụ cho nhà sách Cơ sở 2 của Cơ Mật viện. Nhà vua chu cấp 400 lạng vàng để mua một căn nhà nhỏ gần đấy.
SSS
Cùng lúc ấy, tin tức chiến sự vùng Sơn Đường cứ 6 giờ lại có những bản tin gởi về, với những bước tiến quân chậm chạp nhưng thương vong không quá 10 người mỗi ngày.
Ngày 27 tháng chạp năm ấy. Tin hoan ca và hung tin cùng bay về triều đình. Giờ ngọ quân triều đình đánh tan được bọn giặc Sơn Đường, nhưng thiếu gia Thái Dương đã anh dũng liều mình khi tên Phá vương đặt điều kiện quân triều phải rút lui, nếu không y sẽ giết. Từ trên miệng hang của hòn Sọ Người cao hơn 50 trượng, vị thiếu gia bán thân bất toại làm được chuyện phi thường, với ngón tay của những người chơi đàn rất khỏe, Thiếu gia ôm cứng lấy tên Phá vương xô y xuống núi. Cả hai từ miệng của hòn Sọ Người rơi xuống, dưới sự chứng kiến của gần 2 ngàn triều đình. Không còn con át chủ bài trong tay, tên Sát vương cũng lao đầu xuống tự sát.
Tham vương vốn là một tên ham sống sợ chết. Đem 80 quân đa phần mang đầy thương tích còn lại xin hàng. 10 tên chạy trốn bị bọn cơ binh bắt. Đổi lại quân triều thương vong lên đến 200 người. Nhà vua không vui, không buồn khi chiến dich An Dân đã kết thúc.
“Trẫm muốn xây dựng tại ngã ba Sơn Đường đền thờ Trung Dũng và phong cho thiếu gia Thái Dương là Trung Dũng Chi Thần, cho thờ các binh sĩ tử trận tại đấy.”
Những ngày tết năm đó nhà vua không vui. Viên khâm sai cận thần vận động các quan lớn trong triều, chúc mừng vua với thắng lợi lớn ở Sơn Đường nhưng trong thâm tâm nhà vua ngài nặng trĩu canh cánh một nỗi buồn phiền (Việt Tang), vì ngài gánh lấy một trách nhiệm rất lớn do ngài khởi xướng (Cự Việt) chiến dịch An Dân, giá như việc khởi xướng ấy bắt nguồn từ quan Tể tướng, hay quan Thượng thư bộ Binh thì lại khác. Nhưng nó bắt nguồn tùy hứng, căn nguyên của nó từ một việc rất nhỏ. Đó là ngài không muốn để mất viên cận thần yêu quí của ngài. Hành quân chẳng qua là đi tìm “hắn”. Thế mà “hắn” lại vô tư nhận xét, cho rằng đánh từ vùng Hoang Đường lên Sơn Đường kết quả tồi tệ hơn là đánh Sơn Đường trước. Thế là nhà vua buồn. Hắn vẫn ca ngợi đánh sớm như thế rất là tốt, để muộn nữa không biết cái tai họa lớn như thế nào.
Ngày mồng 7 tết năm đó. Thấy nhà vua vẫn ưu sầu viên cận thần “rủ rê” nhà vua “vi hành” theo ước nguyện của ngài. Để tổ chức chuyến vi hành hành này, y vất vả không ít. Y yêu cầu quan Phủ Doãn xứ Ngọ “làm sạch” phía đông và nam kinh thành theo đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Những bọn đá cá lăn dưa, trời đánh thánh vật, bọn cờ bạc rông dài, du thủ du thực, bọn phụ nữ không chịu ở nhà ra đường đứng cả đêm, cả ngày... được đưa đi xây dựng Trung nghĩa đền tận xứ Thìn. Và ngày mồng 7 vẫn còn là ngày tết đường phố không nhộn nhịp như ngày thường. Đó là dịp để nhà vua đi thăm thú ít bị va chạm nhất. Y lại thuê mướn người để dọn dẹp nhà cửa của y tươm tất hơn thường lệ. Nếu nhà vua “nổi chướng” đòi thăm viếng để y khỏi bẽ bàng.
Vào đầu giờ thìn, chiếc song mã do khâm sai 24 là người “Cổ Tích” làm mã phu. Di chuyển qua cửa sau Hoàng cung là Thái Bình môn. Một trung niên nhìn vẻ bên ngoài khoảng 40 đầu đội mũ lông, mình khoác áo lông thú do sứ thần Nga la tư tặng, phong thái nho nhã, dung mạo xinh đẹp như phụ nữ trong bức danh họa “Người phụ nữ kiêu sa”. Ngồi bên cạnh là viên cận thần uy phong trong nhung y ngự lâm quân, nét phong trần hằn lên khuôn mặt dáng dấp khoảng 50. Chiếc song mã quay đầu về hướng Đông Nam môn, có 2 chiếc song mã khác bí mật bám theo là Tham, Phá nhị vị khâm sai và một chiếc của quan Phủ Doãn (quan đầu tỉnh tại Kinh đô) đi cùng Khâm sai Thất Sát.
Chiếc song mã của nhà vua hướng đến chiếc cầu nổi tiếng xứ Ngọ là Trung Lương kiều bắc qua sông Bảo Giang, có lan can gắn những con sư tử hí cầu tuyệt đẹp. Những chiếc thuyền hoa đậu dọc ven bờ hay đang thả trôi theo dòng sông. Khi chiếc song mã của nhà vua vừa xuống phía bên kia cầu, một kỵ sĩ phi con ngựa đẹp phóng ngang mũi xe của nhà vua, trên đầu kỵ sĩ 2 bên cạo trọc, để giữa một cái bờm cao khoảng gang tay, model La Mã cười nham nhở, sau khi suýt một tí nữa lao vào xe của ngài. Nhà vua quay lại phía viên cận thần:
- Ủa nó là người nước nào vậy?
Viên cận thần đau khổ nói:
- Thưa nước Đại Tử Vi đấy ạ.
- Ối trời ơi! Trẫm ngỡ là quân La Mã xâm phạm (Đà Hình) ta.
Nhà vua lại than tiếp: Chỉ mất 5,3 phút trở thành “người không giống ai” nhưng mất cả đời người chưa chắc trở thành người bình thường. Viên cận thần chết cháy trong lòng, do quan Phủ doãn làm ăn bê bối quá, thầm nghĩ, có lẽ bọn con ông cháu cha chăng. Chiếc xe chạy chầm chậm tiến về phía nam nơi nổi tiếng xứ ngọ. Đường phố trông khá vắng vẻ. Nhà vua lên tiếng:
- Phố vắng, không như trẫm nghĩ.
- Dân chúng có thói quen ăn tết hết cả tháng giêng. Thưa bệ hạ.
- Chỉ có trẫm chưa biết ngày nghỉ, ngày phép là gì.
- Một số người câ cuộc đời là cuộc ăn chơi từ bé đến già. Còn chúng ta thì vất vả từ học đến làm. Dẫu sao, thì tên La Mã vừa rồi cũng không nguy hiểm bằng bọn chọc trời khuấy nước Sơn Đường.
Chiếc xe lăn bánh theo con lộ hai bên có những hàng cây cao bóng mát. Bên vệ đường có một người đàn ông đang bày những cuốn sách ra bán, cạnh đó một thiếu nữ mặc áo 2 dây, trên hở dưới hở thoạt nhìn như chiếc yếm. Tên mã phu Cổ Tích vội tăng tốc nhưng nhà vua cũng kịp thời nhìn thấy cảnh ấy.
- Nó ăn mặc kiểu gì kỳ vậy?
Viên khâm sai buộc miệng ăn nói ẩu tả theo thói quen:
- Chúng nó phơi bày hàng hóa...
Nói đến đó chàng ta giật mình im thin thít. Nhà vua hỏi:
- Khanh vừa nói từ “phơi bày hàng hóa” là cái gì?
- Xin thưa. Thần thấy một người đàn ông đang phơi bày hàng hóa là sách vở để bán.
- Bộ khanh không thấy đứa con gái chỉ mặc cái yếm thôi sao?
- Thần có thấy một phụ nữ nhưng mặc cái gì thần không biết.
Nhà vua quay mặt qua bảo:
- Khanh đừng có láo nhé. Cả đứa con gái to như thế mà mô tả lại hình dáng, ăn mặc cái gì mà không biết. Trong khi, tiêu chuẩn quan sát của khâm sai chỉ 3 giây vẽ lại được bức tranh đã thấy.
- Thần là đại quan của triều đình ra ngoài phải giữ lễ. Nhìn bọn phụ nữ chỉ nhìn từ cổ trở lên mà thôi. Phần Đà La thần không quan sát.
Nhà vua bật cười ha hả. Ngài thầm nghĩ đó là câu dặn dò của ngài. Lòng nghĩ, “hắn” sợ sập bẫy nên nói thế. Nhưng ngài lại nghĩ tiếp “hắn” xiên xỏ ngài ra đường nhìn gái. Lập tức 2 ngón tay đẹp chỉ vào mặt viên cận thần.
- Nè nè. Ngươi đừng nói xiên xỏ ám chỉ trẫm ra đường nhìn gái. Nè -ngài xòe một ngón tay ra- trẫm được quyền ngoại lệ, miễn trừ, bất khả xâm phạm... Ngươi thì không. Nè cho ngươi nói lại ngươi thấy gì?
- Thần chỉ thấy khuôn mặt của một người phụ nữ.
Nhà vua hậm hực chịu thua. Ngài bảo:
- Đánh xe đến Cảo Hương đường.
Đó là hiệu sách, cơ sở 2 của Cơ Mật viện. Viên khâm sai bèn lên tiếng:
- Hạ thần mời bệ hạ đến viếng tệ xá.
- Ừ.
Nhà vua thầm nghĩ. Ta chờ đợi lời nói ấy từ sáng đến giờ. Ngài rất vui khi đến thăm nơi ăn chốn ở của viên cận thần. Một số quan đại thần có nhà cửa bên trong Kinh Thành ngài từng đến chơi. Nhưng viên cận thần ngài yêu thích lần nào cũng viện cớ từ chối.
- Khanh suốt đời nói dối với trẫm. Thà rằng khanh nói. Bên ngoài có nhiều cảnh chướng tai gai mắt như Âm Dương ngộ Kình, cái lỗi bên ngoài đâu phải khanh gây ra đâu. Đó là việc của bộ Học, bộ Lễ.
Phía tây bên ngoài Kinh thành là nơi vắng vẻ, nề nếp như trong Kinh thành. Tránh những xô bồ phức tạp mời vua đến nhà y là hay nhất. Khổ nỗi nhà cửa của y lại xoàng xĩnh tầm thường, chẳng ai lại muốn mời một vị khách cao quý đến như thế về nhà mình. Nhà vua không hiểu điều ấy.
Khi xe nhà vua dừng bánh trước một ngôi nhà vườn thường thấy ở xứ Ngọ thuộc giới trung lưu trở xuống. Nhà có 2 trụ cổng, hàng rào chè tàu xanh làm tường vây, một ngôi nhà bình thường có che thêm gian bếp ở chái tây, nằm lọt giữa khoảng sân vườn, phía trước có hòn non bộ nhỏ, chung quanh vườn có trồng cây ăn trái và cả cây cảnh chen lẫn nhau. Cạnh đấy một ngôi nhà cũng y hệt.
- Khanh ở đây đã bao lâu?
- Thần ở đây hơn 30 năm rồi. Kể từ ngày xưa, sư phụ hạ thần thuê ở, đến đời thần cũng thuê ở, nay mua lại ngôi nhà này. Tại đây có hình bóng của sư phụ hạ thần, một số cây trái do sư phụ trồng và đồ dùng của sư phụ đến nay thần vẫn giữ lại. Vẫn lối đi ấy, vẫn con đường này thần đã quen rồi. Thần chỉ nuôi thêm thằng bé con, một con chó, con mèo mà thôi.
Nghe thế nhà vua rất cảm động, ngài ban cho đứa bé một đồng “hỉ tệ” bằng vàng to bằng lòng bàn tay. Đây là đồng bạc nhà vua thường đúc hằng năm. Để mừng các quan lại bằng đồng, bằng bạc và bằng vàng. Nếu quan khâm sai 20 còn tất thuộc về người ấy.
- Thần có cái này hay lắm.
Viên khâm sai bưng đến một cái tráp khá đẹp, từ từ mở ra, nhà vua ngóng đợi được xem gì. Nào ngờ chỉ là những tờ giấy gói bánh kẹo, thoạt nhìn nhà vua cũng biết nó xuất phát từ phòng Ngự thiện Hoàng cung tuy đã bạc màu.
Nhà vua ngạc nhiên:
Như thế nghĩa là gì?
- Xin thưa, đây là những tờ giấy gói bánh, ngày xưa bệ hạ đã ban cho thần, được cất giữ làm kỷ niệm.
Những cái bánh ấy được gói 2,3 lớp niêm phong, bằng những con dấu nhỏ bằng móng tay. Bên ngoài là niêm phong cuối cùng, cùng hạn kỳ sử dụng.
- Chỉ thế thôi mà khanh cất giữ kỹ thế sao. Thế còn các đồng hỉ tệ khanh cất kỹ lắm?
- Thần cũng cất tại đây thôi, dưới vỏ bánh này. 16 đồng cả thảy.
Nhà vua cười:
- Khanh cất giữ nhiều kỷ niệm của trẫm.
- Đáng tiếc là thần chẳng có gì để kỷ niệm lại cho bệ hạ mà thôi.
Nhà vua cười cười, vừa uống ngụm trà vừa nói:
- Có đấy. Tại khanh không nghĩ ra mà thôi.
- Có lẽ những cây cảnh mà Cơ Mật viện tặng bệ hạ hằng năm.
Nhà vua lại cười dịu dàng bảo:
- Cái đó là của Cơ Mật viện chứ đâu phải của khanh.
- Tệ thật. Thần ngu dốt chẳng nghĩ ra.
Nhà vua khe khẽ ngâm:
Càng xa xứ Ngọ càng thương nhớ.
Chỉ muốn làm chim chóng trở về..
- Nhưng đó là bản mật tấu thưa bệ hạ.
- Nhưng là kỷ vật đối với trẫm đấy.
Nhà vua yêu thích phong cách sống giản dị của viên cận thần. Y chẳng quan tâm gì cả, chỉ mong cho tròn công việc như Tử Vi ngộ Tuần. Ngài bảo:
- Hôm nay là ngày hạnh phúc của trẫm.
Chương kết.
Hồi cuối.
Thời gian này cháu đang rảnh nên cũng mầy mò tìm hiểu các trình làm flash để giải trí và hiểu biết thêm. Mặc dù thời gian trước cháu cũng tìm hiểu về flash nhưng là flash 3D phục vụ cho công việc. Có gì hai bác cháu cùng trao đổi kinh nghiệm để cháu học tập thêm bác nhé!
Chúc bác luôn vui vẻ và có nhiều bài viết cũng như chương trình flash hay!
Mấy hôm vừa rồi cháu thử tìm hiểu mấy trình làm ảnh động và flash bác thường dùng. Cháu có tấm ảnh tặng bác. Chúc bác luôn mạnh khỏe và vui vẻ!