NHẬT KÝ ANNA FRANK.
Ít ra một lần bạn nghe nhắc đến cuốn nhật ký này. Và không bao giờ nghĩ rằng lấy được lá số TỬ VI cô bé nổi tiếng nhờ những trang nhật ký để lại. Cô ta viết nhật ký vào năm 13 tuổi và bị chết trong trại giam của Đức Quốc xã vào năm 17 tuổi. Một văn sĩ nhí nhưng biết bao người tìm đọc .Mô tả những ngày trốn tránh cùng 7 người khác trong căn phòng bí mật.
Anneliese Marie Frank sinh ngày 12 tháng 6 năm 1929 tại Frankfurt-on-Main, nước Đức, trong một gia đình Do Thái. Anne là con gái thứ hai của Otto Heinrich Frank và Edith Holländer. Otto Heinrich Frank đã từng là sĩ quan trong quân đội Đức vào thời kỳ Thế Chiến Thứ Nhất, nhưng khi Hitler lên nắm chính quyền và dùng sắc dân Do Thái làm dê tế thần, tức là một loại kẻ thù của nước Đức Quốc Xã, thì ông Otto đã quyết định mang gia đình qua thành phố Amsterdam, nước Hòa Lan năm 1933. Vào tháng 12 năm 1940, ông Otto buôn bán thực phẩm tại một tòa nhà cũ xây dựng vào thế kỷ 17, mang số 263 trên đường Prinsengracht. Các nhân viên làm việc với ông Otto đã coi ông là người công bằng và ân cần. Đối với Anne Frank, các năm đầu sống tại thành phố Amsterdam là thời gian hạnh phúc. Trong miền ngoại ô vui tươi này, các người trong gia đình đều quên đi quá khứ Đức mà dần dần mang đặc tính Hòa Lan với chị Margot hơn Anne 3 tuổi, là một thiếu nữ thông minh và xinh đẹp, nhưng Anne nhậy cảm, duyên dáng và nói chuyện bộc trực hơn. Anne ưa thích phim ảnh, chuyện thần thoại Hy Lạp và các bạn bè. Vào tháng 5 năm 1940 (Canh Thìn 12 tuổi), quân đội của Hitler tràn qua miền đất Hòa Lan trung lập. Gia đình Frank cũng như toàn thể sắc dân Do Thái trở thành nạn nhân của một hệ thống chính trị đàn áp và khủng bố. Đầu tiên, chế độ Quốc Xã cấm đoán các người Do Thái không được ký các hợp đồng thương mại, sau đó các cuốn sách do người Do Thái viết ra bị đốt bỏ, rồi tiếp theo là các đạo luật nghiêm trị các cuộc hôn nhân giữa người Do Thái và người Đức. Người Do Thái không được phép vào các thư viện, công viên, bờ biển, rạp chiếu bóng v.v. Tại Hòa Lan vào tháng 9/1941, chị Margot và Anne bị chuyển qua ngôi trường học gồm toàn học sinh Do Thái. Tới tháng 4 năm sau, mọi người Do Thái nhận được lệnh phải mang ngôi sao 6 cánh màu vàng trên y phục (ngôi sao 6 cánh của người Do Thái), họ không được phép dùng điện thoại, bị cấm đi xe đạp...
Sáng thứ Hai, ngày 6 tháng 7 năm 1942 Nhâm Ngọ (Anne 14 tuổi) gia đình Frank dời đến nơi ẩn náu. Căn hộ chung cư của họ bị xáo trộn để tạo ấn tượng rằng họ đã vội vàng bỏ trốn, Otto Frank để lại những ghi chép ngụ ý họ đến Thụy Sĩ. Để giữ bí mật họ buộc phải để lại con mèo Moortje của Anne. Khi ấy người Do Thái không được phép sử dụng các phương tiện giao thông công cộng, gia đình Frank phải đi bộ vài cây số, mặc trên mình nhiều lớp áo quần vì không dám mang xách hành lý. Achterhuis (nghĩa là phần sau của ngôi nhà) của gia đình Frank là chỗ ẩn náu ba tầng lầu ở cuối tòa nhà nơi Miep Gies sống công khai với gia đình của bà. Lối vào Achterhuis đặt trên dãy văn phòng của công ty Opekta. Tại lầu một, họ có hai phòng nhỏ với phòng tắm và phòng vệ sinh kế cận, ở tầng trên là một căn phòng lớn và một phòng nhỏ kề bên. Trong căn phòng nhỏ này có một chiếc thang dẫn lên căn phòng áp mái bí mật. Cửa vào Achterhuis được che chắn bằng một kệ sách. Đây là một tòa nhà cổ trông giống nhiều tòa nhà khác tọa lạc ở khu phía tây Amsterdam.
Vào 8 giờ sáng ngày 6 tháng 6 năm 1944 (Năm Giáp Thân, Anna 16 tuổi), đài BBC loan tin quân đội Đồng Minh đổ bộ lên bờ biển Normandy. Hy vọng đã lóe lên trong căn phòng bí mật. Có thể đây là năm chiến thắng và giải phóng? Nếu như vậy, Anne mơ mộng trở lại trường học trong khóa học tới? Vài ngày sau, Anne kỷ niệm ngày sinh thứ 15. Thế nhưng khúc cuối bi đát đã tới vào buổi sáng ngày thứ Sáu, tức là ngày 4 (Canh Tý) tháng 8 (Tân Mùi), sau khi các người ẩn núp đã trải qua 761 ngày dài lâu và đau khổ. (Có tám người cùng sống trong một nơi giam hãm nhỏ xíu là Otto và Edith Frank, cha mẹ Anne, chị cả Margot, nha sĩ Fritz Pfeffer, ông bà Van Pels và con trai Peter của họ). Vào khoảng 10 giờ 30 sáng, một chiếc xe quân đội Đức ngừng lại trước tòa nhà số 263 đường Prinsengracht và các cảnh sát mặc thường phục với một cảnh sát mặc sắc phục dẫn đường chạy vào tòa nhà. Chúng chĩa súng vào Victor Kugler, bắt anh phải dẫn tới tủ sách giả và chúng ra lệnh cho anh mở lối vào. Một lúc sau, tám người Do Thái lẩn trốn đã bị bắt. Một xe tải bít bùng đã chở họ cùng với Kugler và Johannes Kleimann đi mất. Tới xế chiều, hai người thư ký là cô Miep Gies và cô Bep Voskujl đã chờ đợi rồi mới dám vào căn phòng bí mật. Bọn Quốc Xã lục lọi khắp nơi. Trong cảnh hỗn độn này, Cô Miep thu lượm các tờ giấy rải rác trên sàn nhà. Cô đã kiếm được một thứ quý giá hơn cả tiền bạc và nữ trang, đó là tập nhật ký của Anne Frank. Ngày 27 tháng 1 năm 1945, khi quân đội Xô Viết tràn quân qua trại tử thần Auschwitz thì ông Otto Frank (cha của Anne) đang nằm trong bệnh viện, nhờ vậy ông đã không bị đưa tới phòng hơi ngạt và được giải thoát. Ông Otto Frank là người duy nhất thuộc nhóm 8 người, còn sống sót từ các trại tử thần, sau đó trở về thành phố Amsterdam, Hòa Lan, rồi trong một lần thăm viếng nơi ở cũ, gặp lại cô Miep Gies, cô này đã trao cho ông một tập giấy viết tay và nói: “Đây là di sản của con gái ông”. Một tháng sau, 8 người Do Thái lẩn trốn kể trên bị dồn vào toa xe lửa cuối cùng chở các tù nhân từ Hòa Lan tới trại tử thần Auschwitz. Đàn ông và đàn bà bị chia cách nhau, họ không bao giờ gặp lại nhau.
Anne và Margot bị đưa tới trại Bergen-Belsen. Sự nghiên cứu chính xác của Carol Ann Lee từ những tài liệu, những nhân chứng, đã cho ta biết những gì xảy ra sau cuộc lùng bắt những người trốn trong xưởng đó. Sự bắt bớ, cái chết của Anne 15 tuổi và Margot 18 tuổi và Edith, mẹ các cô gái không còn trừu tượng nữa. Những người thoát nạn từ Auschwitz, cũng gốc Hòa Lan, diễn tả lại nơi mẹ con Edith ở: Buổi sáng sớm lúc 3 giờ rưỡi bị đánh thức dậy để làm một việc hết sức vô lý, đó là xới đất để gom thành đống đất trộn với cỏ. Anne phải đi phân phối bánh mì cho bữa ăn tối. Margot và mẹ bị chọn để làm việc nơi một kho đạn dược Tchèque nhưng cả hai từ chối không bỏ Anne ở lại một mình, lúc đó Anne bị ghẻ lở. Nhưng sau đó mẹ con lại bị chia rẽ nhau: Anne và Margot bị gởi tới Bergen-Belsen thuộc về miền trung của nước Đức, tại nơi này, giống như 28,000 tù nhân khác, hai cô gái mắc bệnh thương hàn.. Những người bạn ở chung kể rằng những tháng cuối cùng của hai chị em, là nỗi đau khổ dai dẳng của họ. Trong một trong những căn nhà tồi tàn, quá đông đúc và hôi thối, Margot và Anne hấp hối. Hai người con gái chết vì bệnh thương hàn nơi một cái giường thê thảm nhất có thể có được, đặt sát cửa ra vào. Hai chị em gầy còm, hốc hác trông rất khủng khiếp. Da mọc đầy mụn mủ. Gương mặt không còn chút thịt nào, chỉ da bọc xương và họ lạnh kinh khủng. Margot chết trước. Anne chăm sóc chị tới ngày chót và qua đời sau chị vào tháng 3 năm 1945, vài tuần lễ trước khi quân đội Anh tiến vào trại tử thần ngày 15/4/1945.
Năm 2001, Carol Ann Lee tác giả Mỹ đã in ra tiểu sử cuộc đời Anne Frank TRANG NHẬT KÝ. Từ ngày 12/6/1942, Anne Frank bắt đầu viết nhật ký. Cô được cha mẹ cho một quyển giấy mỏng có bìa sọc nhiều màu nhân ngày sinh thứ 13. Trên những trang đầu, Anne kể lại nhiều câu chuyện tầm thường về lớp học nhưng sang tuần lễ sau, cô đã ghi: “Ngày 20 tháng 6, các người Do Thái bị bắt buộc phải nộp các xe đạp. Họ không được dùng xe điện, đi xe hơi ngay cả ngồi trên xe của họ. Người Do Thái bị cấm ra đường trong khoảng thời gian từ 8 giờ tối tới 6 giờ sáng, bị cấm không được ngồi trong vườn của họ sau 8 giờ tối”. Trước các hành động khủng bố này, cha của Anne bắt đầu thu xếp cho gia đình ẩn núp trong các căn phòng không sử dụng nằm dưới mái nhà của tòa nhà số 263 đường Prinsengracht. Vào ngày chủ nhật, ông Otto lén lút mang các vật dụng gia đình, đồ đạc và các lon đồ ăn cất vào trong căn phòng bí mật. Biết rằng cần tới sự giúp đỡ của người bên ngoài, ông đã tin cẩn nhờ bốn nhân viên cũ tên là Johannes Kleiman, Victor Kugler và hai cô thư ký trẻ Miep Gies và Bep Voskuijl. Anne đã ghi trong nhật ký: “Vài ngày trước đây, cha bắt đầu nói tới việc đi trốn với vẻ rất nghiêm trọng làm cho tôi sợ hãi. Ông nói “đừng bận tâm, con hãy hưởng cuộc đời vô lo khi còn có thể hưởng”. Ôi, cầu mong những lời đơn sơ này trở thành sự thật và dài lâu”. Nhưng chỉ sau ít giờ khi Anne bắt đầu ghi nhật ký thì lệnh của bọn lính Quốc Xã SS được giao cho Margot, 16 tuổi. Chị phải trình diện ngày hôm sau để bị chuyển tới trại lao động cải tạo bên trong nước Đức. Không còn trì hoãn được nữa. Sáng sớm ngày hôm sau, toàn thể gia đình Frank biến mất. Margot đi trước, chị lột bỏ ngôi sao vàng trên áo và đạp chiếc xe đạp ăn cắp, đi trong trời mưa cùng với Miep Gies tới nơi ẩn núp. Anne và cha mẹ đi bộ theo sau. Họ đã ra đi để được sống gần nhau nhưng phải xa lìa mọi thứ trên thế gian. Nhật ký đã ghi: “Mỗi người chúng tôi có một túi đeo và một túi xách đầy ắp những đồ vật cần thiết”. Do xếp đặt trước, vài người khác cũng tới nơi ẩn núp này. Có 3 người Do Thái khác đang gặp nguy khốn là ông Hermann Van Pels, vợ ông ta và con trai Peter, 15 tuổi. Ông Hermann là đồng nghiệp của ông Otto. Vào lúc này, có tin đồn rằng gia đình Frank đã bỏ trốn qua Thụy Sĩ.
Nhật ký ghi thêm: “Ngày 11 tháng 7. Có vẻ như ngày nghỉ trong một căn nhà trọ lạ lùng. Căn nhà thì ẩm thấp và nghiêng lệch, nhưng trong cả nước Hòa Lan, không có nơi ẩn núp nào tiện lợi hơn nơi này. Phòng ngủ của chúng tôi cho tới nay thì trơ trụi, nhưng nhờ có cha mang về các tờ báo điện ảnh, tôi có thể dán kín các bức tường bằng các hình đẹp mắt”. Margot và Anne ngủ trong căn phòng dài và hẹp này, bên cạnh là căn phòng của cha mẹ. Gia đình Van Pels chiếm hai phòng kia. Cửa vào căn phòng được ngụy trang bằng một tủ sách xoay và trên mỗi cửa sổ đều có màn tối che phủ. Bên trong căn phòng, mọi người phải thật thận trọng khi nấu ăn, xả rác hay dùng chiếc cầu tiêu duy nhất. Vào ban ngày mọi người phải mang vớ để di chuyển, phải thì thầm nói với nhau do e sợ bị các công nhân làm trong nhà kho bên dưới nghe thấy, bởi vì các công nhân không biết rằng trên đầu họ đang có những kẻ ẩn núp. Các ngày buồn tẻ của mùa hè năm 1942 trôi dần qua. Vào tháng 11, cô Miep tới nơi ẩn núp, báo cho mọi người biết tin rằng nha sĩ Fritz Pfeffer đang tuyệt đối cần gấp một nơi trốn tránh vì vậy chị Margot phải dọn vào ngủ trong phòng với cha mẹ và Anne chia phòng với người mới đến. Như thường lệ, bốn nhân viên trung thành thay nhau tiếp tế cho các người ẩn núp sau khi các công nhân làm việc trong tòa nhà đã ra về, họ mang tới đồ ăn và các nhu yếu phẩm rất khó kiếm như xà bông, kem đánh răng, thuốc cảm aspirin. Họ cũng tìm được vài cuốn sách và các tạp chí. Anne đã ghi lại như sau: “họ không hề than phiền về gánh nặng mà họ phải chịu đựng”. Anne Frank cũng hỏi tin của các bạn bè cùng gia đình của các người bạn này nhưng không bao giờ có các tin vui cả. Qua chiếc máy truyền thanh lén lút, các người ẩn núp nghe thấy đài phát thanh BBC loan báo về các vụ trục xuất tập thể. Khi tới nơi trú ẩn, ông Pfeffer cũng cho các người trong nhà này biết rằng bọn Đức Quốc Xã đã đi từng nhà săn lùng các người Do Thái.
Nhật ký của Anne Frank ghi như sau: “Vào lúc trời tối, tôi thường trông rõ nhiều hàng dài các con người vô tội bị dẫn đi. Họ đi vào cõi chết. Tôi cảm thấy mắc tội khi còn ngủ trên chiếc giường ấm áp và hết sức hãi hùng khi nghĩ đến các bạn thân hiện nay là nạn nhân của các con quỷ dữ tợn nhất trên mặt đất. Tất cả là nạn nhân, bởi vì họ là các người Do Thái”. Sau này, Anne còn viết rằng: “Nhưng tôi sẽ không nói thêm về đề tài này. Các ý nghĩ này đủ cho tôi các cơn ác mộng”. Các cơn ác mộng thật sự tới với những người ẩn núp khi có kẻ trộm lẻn vào nhà kho bên dưới và cảnh sát Đức lục lọi tòa nhà trong khi mà tám nạn nhân trốn tránh trong căn phòng bí mật. Nhật ký ghi: “Có chân người bước lên cầu thang, rồi tiếng kẹt kẹt tại tủ sách. Tôi nói “bây giờ tới số rồi”, nhưng sau đó bước chân lui dần, cho tới lúc này chúng tôi thoát hiểm”. Khi Anne Frank đã ghi hết các trang giấy, cô Miep lại mang tới những tờ giấy trắng rời của các cuốn sổ ngân hàng rồi Anne tiếp tục viết. Cuốn nhật ký là người bạn thân nhất của Anne, cô viết theo trí tưởng tượng: “Tôi cảm thấy mình như một con chim sơn ca có cánh bị chặt bỏ và tự đập mình vào thành của chiếc lồng đen tối”. Hai tháng sau lần viết ra câu này, Anne tự hỏi: “Có ai biết rằng tôi chỉ là một thiếu nữ rất cần tới các trò chơi đơn giản không?”. Khi mới quen Peter Schiff , Anne được 11 tuổi, còn Peter 13. Năm 1940 Peter đến đón Anne khi tan học và mời Anne tới nhà. Lúc đầu, Anne Frank chê Peter là “một cậu trai vụng về, kết bạn chẳng có lợi gì” nhưng vào mùa xuân năm 1944 khi Anne sắp được 15, hai người trẻ tuổi này đã yêu thương nhau. Họ thường gặp nhau tại tầng sát mái, nơi có cửa sổ nhìn lên bầu trời xanh, nhìn thấy ngọn cây hạt dẻ xanh tươi và các con hải âu bay lượn theo chiều gió.
Ngày 7/1/1944, Anne tả trong nhật ký tình cảm đam mê của mình: ..." Tôi vẫn còn nhìn thấy chúng tôi tay trong tay trên đường phố... Peter cao, đẹp, mảnh với khuôn mặt đoan trang, bình tĩnh và thông minh. Anh có tóc sậm màu, hai má nâu đỏ và cái mũi thanh. Điều mà tôi yêu quý nhất là nụ cười của anh, nụ cười làm anh có vẻ ranh mãnh và tinh nghịch"... .."Ngày 16 tháng 4. Tôi nhớ lại buổi gặp gỡ hôm qua. Đây có phải là một ngày quan trọng không khi người con gái nhận nụ hôn đầu tiên?... Cha muốn tôi chấm dứt việc tôi lên trên tầng cao nhất đó nhưng tôi thích gần Peter. Tôi tin anh ấy”... Cũng như Anne, Peter Schiff chết trong trại tập trung ở Auschwit Anne Frank đọc thật kỹ các cuốn sách do cô Miep mang tới: “Ôi, có quá nhiều để tìm kiếm và để học hỏi” và cô bé này ước mong viết ra một cuốn sách có tên là “Căn phòng bí mật”, tức là cuốn nhật ký của cô. “Tôi muốn trở thành một nhà văn. Tôi biết rằng tôi có thể viết văn. Tôi muốn tiếp tục sống sau khi qua đời! Và đây là lý do tại sao tôi biết ơn Thượng Đế vì đã cho tôi năng khiếu này, nhờ đó tôi có thể diễn tả những gì bên trong tâm hồn của tôi”.
7/ Xuất bản cuốn nhật ký Tiểu sử Anne Frank chưa dừng sau cái chết của cô mà vẫn tiếp tục với việc xuất bản quyển nhật ký. Qua thư từ của Otto Frank và những người bạn nhân chứng của ông, phải mất khá lâu ông Otto mới đọc xong cuốn Nhật Ký của cô con gái Anne Frank rồi dần dần và trong nỗi cực nhọc, ông Otto bắt đầu đánh máy bản viết tay để các họ hàng và bạn bè đọc. Ông kết hợp trang nhật ký và những lời kể của bạn bè và chứng nhân, xóa bớt vài chỗ (những trang viết thiếu vừa mới được tìm thấy), bớt đi những lời dữ tợn của Anne dành cho mẹ cũng như những phê phán của Anne về sự quan hệ của cha mẹ. Ngoài ra tờ nhật báo Hòa Lan Het Parool nhận in trang nhật ký với điều kiện là xóa bỏ những đọan nói về tình dục. Trong thập niên 50, đầu tiên quyển nhật ký bị các nhà xuất bản Đức từ chối, cũng các nhà xuất bản Knopf, Simon & Schuster, Viking của Mỹ. Cuối cùng, Doubleday xuất bản tại Hoa Kỳ. Calmann-Lévy in đầu tiên tại Pháp và đến năm 1989 thì nhà xuất bản này in trọn bộ quyển Nhật ký. Anne Frank trở nên bất tử do sự nghiệp văn chương của cô. Cô bé này là một nhà văn xuất sắc mặc dù tuổi còn nhỏ. Hàng triệu độc giả đã phải xúc động vì cách mô tả ngây thơ, chân thật của cô. Anne tự hỏi về nhiều vấn đề như sinh lý, tôn giáo, cha mẹ... , cô mô tả sự nhàm chán và buồn tẻ, cô thắc mắc về các đề tài như lòng rộng lượng và tính công bằng trong xã hội loài người. Anne Frank đã cầu mong: “khi nhìn lên trời cao, tôi nghĩ rằng mọi sự việc sẽ trở nên tốt lành, rằng sự tàn bạo sẽ chấm dứt, rằng nền hòa bình và sự yên tĩnh sẽ trở lại...”. Đây không phải là tiếng kêu của một người Do Thái bị nhốt trên tầng chót của một tòa nhà mà là tiếng than của một tâm hồn trong thế kỷ 20, là lời cầu mong của kẻ lạc lõng, bất lực và đau khổ giữa các thảm cảnh đàn áp rất tàn bạo trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai. Bọn Đức Quốc Xã đã giết chết một cô bé ngây thơ, vô tội, nhưng cuốn Nhật Ký của cô Anne Frank đã là một bằng chứng về loại tội ác diệt chủng. Cho tới ngày nay, Anne Frank vẫn là một ngọn nến cháy sáng trong đêm tối vì loài người, do cô bé đã ghi nhận: “Tôi còn tin tưởng rằng dù thế nào đi nữa, mọi người đều có bản tâm thật tốt”.
Tài liệu lấy ở trang (hình như là) vietscience. Vì thường quét chọn dán vào Word.
Lâu rồi cháu không vào blog, cháu có dùng FB nhưng cũng ít khi vào. Cháu mới về quê nội ở Long Xuyên, chuyến đi thật vui bác ơi. Cháu đã dời sang nhà mới được vài tháng, nhưng những cây lộc vừng thì cháu vẫn mang theo
Cháu kinh chúc bác và gia đình năm mới thật hạnh phúc, bình an , dồi dào sức khỏe và vạn sự như ý.
Cháu Phúc.